“Lời tâm tình nhắn nhủ của tình yêu bất diệt”
“Mỗi chúng ta có một Pu-skin của mình, và chỉ có một Pu-skin với tất cả mà thôi. Ông đã đi vào cuộc sống chúng ta với ngay từ đầu của nó và mãi mãi không từ bỏ chúng ta” (Alếch-xan-đrơ Tra-đốp-xki). Nhận định này không chỉ khẳng định sức sống và khả năng tác động mạnh mẽ của thơ ca Pu-skin đối với đông đảo độc giả mà còn nói đến sự phong phú đa dạng trong sáng tác của ông. Ở Pu-skin, chúng ta có thể gặp một thanh niên quý tộc với tư tưởng chán chường, muốn xa lánh xã hội thượng lưu giả dối để đến với cuộc sống thanh bình, tự do chốn thôn quê. Cũng có thể gặp một chiến sĩ cách mạng với khát vọng tự do, hoặc một nhà cải cách xã hội có tư tưởng tiến bộ, và còn có cả một nhà văn hiện thực trong một nhà thơ tình lãng mạn. Quá trình sáng tác của Pu-skin là một quá trình vận động tư tưởng theo chiều tiến bộ, từ một thanh niên quý tộc có tư tưởng tiến bộ nhưng còn xa rời nhân dân đến một chiến sĩ cách mạng ưu tú luôn vì quyền lợi của nhân dân lao động. Nhưng cao hơn tất cả chúng ta gặp một nhân cách Pu-skin – một Con người đích thực ở mọi phương diện sống. Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc với rất nhiều điều kiện thuận lợi cho một cuộc sống vinh hoa nhưng là một Con người, nhà thơ đã không chấp nhận, đã nguyện làm một “ca sĩ của tự do”, trở thành kẻ thù của bọn cầm quyền. Ông đã cống hiến cả cuộc đời mình cho khát vọng về một xã hội tốt đẹp, tự do và bình đẳng. Sáng tác của Puskin là lí tưởng cao cả về những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống, trong đó có tình yêu – tình cảm tuyệt vời nhất của cuộc đời.
Tình yêu là một đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Không có nhà thơ nào lại không nói đến tình yêu trong thi phẩm của mình. Mọi cung bậc tình cảm, mọi biến thái của tinh vi và những rung động tinh tế của tâm hồn con người đều xuất hiện trong thơ ca. Tình yêu là một thứ tình cảm rất phức tạp, có khả năng đưa con người trở thành thiên thần nhưng cũng có thể biến con người trở thành quỷ dữ. Và điều mà thơ ca hướng đến là lí tưởng về những tình yêu đẹp, tình yêu thánh thiện. Pu-skin là một nhà thơ tình yêu như thế. Thơ tình của ông là sự kết hợp của tình yêu nhân loại và tình yêu con người. Ông sáng tác cả thơ trữ tình và văn xuôi, và đều thành công. Ở mảng thơ trữ tình, nhà thơ quan tâm đến hai đề tài lớn : đề cao khát vọng tự do và khám phá đời sống tinh thần, tình cảm của nhân dân lao động (thể hiện ở mảng thơ về tình yêu).
Những trải nghiệm của chính bản thân và sự nhạy cảm của một tâm hồn nhân hậu đã giúp nhà thơ phát hiện và thể hiện vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Nhà thơ đã phát hiện và xử lí các tình huống của tình yêu theo chuẩn mực đạo đức của nhân dân lao động. Những tình cảm cao đẹp mà nhà thơ ca ngợi đối lập hoàn toàn với cuộc sống nhơ nhớp bẩn thỉu của xã hội thượng lưu, cái xã hội mà tình yêu chỉ là sự chiếm đoạt, ích kỉ.
Sức "ám ảnh" của thơ Puskin nằm ngay trong cái chiều sâu của tư duy và cường độ của cảm xúc...Đến đây, ta mới ngộ ra rằng, bài thơ là một sự vun đắp cho tình yêu chứ không phải là sự chối bỏ tình yêu. Một câu thơ dịch chưa trọn câu mà làm người đọc cứ ám ảnh mãi. Đó là câu: "Tôi yêu em đến nay chừng có thể" trong bài "Tôi yêu em" của Puskin do Thúy Toàn dịch...
Cái hay của văn chương chính là ở sự ám ảnh này. Cần phải thấy rằng, hồn cốt của một bài thơ là ở cái giọng điệu của nó. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết. Với ý nghĩa đó, trong nghiên cứu cũng như trong dịch thuật, việc bám sát ngôn từ và nắm bắt được cái giọng điệu của nguyên tác bài thơ để chuyển tải nó sang bài thơ dịch là điều quan trọng nhất.
Nguyên tác bài "Tôi yêu em" của Puskin có một giọng điệu thâm trầm, tha thiết, chân thành. Toàn bài thơ chỉ có hai câu lớn, mỗi câu bốn dòng thơ, viết liền mạch. Cũng có thể xem, bài thơ có 2 phần, mỗi phần được bắt đầu bằng cụm từ "Tôi yêu em", tạo nên cái giọng điệu khẳng định của cả bài thơ, đồng thời là chìa khoá để khám phá tình cảm ẩn chìm phức tạp và những rung động tinh tế trong tâm hồn của nhà thơ. Bản dịch của Thuý Toàn, sở dĩ, hàng chục năm nay đã được xem là bản dịch thành công và đã được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến, thuộc lòng phải chăng vì đã chuyển tải được cái "hồn cốt" của nguyên tác.
Dòng thơ mở đầu được Thuý Toàn dịch Tôi yêu em. Đúng ra phải dịch là Tôi đã yêu em (thời quá khứ), nhưng cái tài hoa của người dịch là vừa không bỏ sót cái ý nghĩa thời quá khứ (Tôi đã yêu em), lại vừa chuyển tải được nhiều lớp tình cảm ẩn chứa trong tâm hồn nhà thơ trong hiện tại. Tình yêu nhà thơ dành cho người yêu là một tình yêu có quá trình (đến nay), có thử thách nhưng vẫn chưa tắt (-ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai). Đó là một tình yêu chân thành, đằm thắm nhưng không được đáp đền, không biết nói cùng ai (âm thầm, không hi vọng), một tình yêu rụt rè và có cả ghen tuông nên càng mãnh liệt, cồn cào...hễ có dịp là bật mở.
Cụm từ chừng có thể nghe có vẻ "chưa Việt lắm", nhưng nếu đặt trong sự liền mạch của 4 câu đầu, câu thơ dịch không làm ảnh hưởng đến "tinh thần" cơ bản của nguyên tác; Hình ảnh "ngọn lửa tình" vốn không có trong nguyên tác mà do dịch giả thêm vào. Có lẽ được gợi ý từ động từ tắt như nhiều người đã nghĩ đến .
Tuy nhiên, cái sự thêm vào này cũng không ảnh hưởng đến ý nghĩa câu thơ bởi đây là cách nói ẩn dụ đã quá quen thuộc. Theo logic giãi bày tình cảm: Tôi đã yêu em... nhưng.... Tôi đã yêu em...Cầu trời cho..., dường như nhân vật trữ tình muốn thông báo một sự việc "rút lui", tự chối bỏ niềm say mê, tự mình dập tắt ngọn lửa tình yêu đang nồng cháy... Nhân vật trữ tình giãi bày tâm trạng vừa theo logic của lý trí, vừa theo mạch cảm xúc. Nhưng lý trí là bề ngoài, cảm xúc nhà thơ thì cứ cuồn cuộn chảy, bất chấp cả logic. Ngọn lửa ấy "càng dập, càng nồng". Cảm xúc của nhân vật trữ tình bật lên như một điệp khúc Tôi yêu em!
Qua sự giãi bày của nhân vật trữ tình, ta thấy có sự mâu thuẫn giữa cảm xúc và lý trí. Lý trí bảo:
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa
Hay hồn em phải gợn sóng u hoài...
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.
Ta không biết gì nhiều về tình cảm của cô gái, nhưng nhân vật trữ tình thì hình như không được thanh thản và giữa họ như có điều gì bất ổn, trở ngại. Những trạng thái cảm xúc: rụt rè, âm thầm, không hi vọng, hậm hực lòng ghen...vốn là những biểu hiện rất CON NGƯỜI. Ghen tuông bao giờ cũng là bạn đồng hành của tình yêu. Nét nổi bật ở nhân vật trữ tình là tình cảm chân thành, đằm thắm và rất đỗi cao thượng.
Câu thơ cuối, Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em, thật bất ngờ. Khiêm nhường và tế nhị, tha thiết và mãnh liệt. Mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm trở nên gay gắt. Tưởng như vô lý mà lại có lý. Dường như ngọn lửa tình không những chẳng tàn phai mà còn ngùn ngụt cháy. Câu thơ cuối của Puskin thật độc đáo. Người dịch đã nắm bắt và chuyển tải một sự đồng điệu giữa câu thơ của Puskin với câu ca Quan họ trong bài Giã bạn để dịch nên câu thơ tài hoa này:
Người về em dặn câu rằng
Đâu hơn người kết, đâu bằng đợi em.
Puskin thường không "trang sức cầu kì", không dụng công xây dựng hình ảnh, ít sử dụng các biện pháp tu từ. Sức "ám ảnh" của thơ Puskin nằm ngay trong cái chiều sâu của tư duy và cường độ của cảm xúc...Đến đây, ta mới ngộ ra rằng, bài thơ là một sự vun đắp cho tình yêu chứ không phải là sự chối bỏ tình yêu.
Tình yêu là một đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Không có nhà thơ nào lại không nói đến tình yêu trong thi phẩm của mình. Mọi cung bậc tình cảm, mọi biến thái của tinh vi và những rung động tinh tế của tâm hồn con người đều xuất hiện trong thơ ca. Tình yêu là một thứ tình cảm rất phức tạp, có khả năng đưa con người trở thành thiên thần nhưng cũng có thể biến con người trở thành quỷ dữ. Và điều mà thơ ca hướng đến là lí tưởng về những tình yêu đẹp, tình yêu thánh thiện. Pu-skin là một nhà thơ tình yêu như thế. Thơ tình của ông là sự kết hợp của tình yêu nhân loại và tình yêu con người. Ông sáng tác cả thơ trữ tình và văn xuôi, và đều thành công. Ở mảng thơ trữ tình, nhà thơ quan tâm đến hai đề tài lớn : đề cao khát vọng tự do và khám phá đời sống tinh thần, tình cảm của nhân dân lao động (thể hiện ở mảng thơ về tình yêu).
Những trải nghiệm của chính bản thân và sự nhạy cảm của một tâm hồn nhân hậu đã giúp nhà thơ phát hiện và thể hiện vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Nhà thơ đã phát hiện và xử lí các tình huống của tình yêu theo chuẩn mực đạo đức của nhân dân lao động. Những tình cảm cao đẹp mà nhà thơ ca ngợi đối lập hoàn toàn với cuộc sống nhơ nhớp bẩn thỉu của xã hội thượng lưu, cái xã hội mà tình yêu chỉ là sự chiếm đoạt, ích kỉ.
Sức "ám ảnh" của thơ Puskin nằm ngay trong cái chiều sâu của tư duy và cường độ của cảm xúc...Đến đây, ta mới ngộ ra rằng, bài thơ là một sự vun đắp cho tình yêu chứ không phải là sự chối bỏ tình yêu. Một câu thơ dịch chưa trọn câu mà làm người đọc cứ ám ảnh mãi. Đó là câu: "Tôi yêu em đến nay chừng có thể" trong bài "Tôi yêu em" của Puskin do Thúy Toàn dịch...
Cái hay của văn chương chính là ở sự ám ảnh này. Cần phải thấy rằng, hồn cốt của một bài thơ là ở cái giọng điệu của nó. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết. Với ý nghĩa đó, trong nghiên cứu cũng như trong dịch thuật, việc bám sát ngôn từ và nắm bắt được cái giọng điệu của nguyên tác bài thơ để chuyển tải nó sang bài thơ dịch là điều quan trọng nhất.
Nguyên tác bài "Tôi yêu em" của Puskin có một giọng điệu thâm trầm, tha thiết, chân thành. Toàn bài thơ chỉ có hai câu lớn, mỗi câu bốn dòng thơ, viết liền mạch. Cũng có thể xem, bài thơ có 2 phần, mỗi phần được bắt đầu bằng cụm từ "Tôi yêu em", tạo nên cái giọng điệu khẳng định của cả bài thơ, đồng thời là chìa khoá để khám phá tình cảm ẩn chìm phức tạp và những rung động tinh tế trong tâm hồn của nhà thơ. Bản dịch của Thuý Toàn, sở dĩ, hàng chục năm nay đã được xem là bản dịch thành công và đã được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến, thuộc lòng phải chăng vì đã chuyển tải được cái "hồn cốt" của nguyên tác.
Dòng thơ mở đầu được Thuý Toàn dịch Tôi yêu em. Đúng ra phải dịch là Tôi đã yêu em (thời quá khứ), nhưng cái tài hoa của người dịch là vừa không bỏ sót cái ý nghĩa thời quá khứ (Tôi đã yêu em), lại vừa chuyển tải được nhiều lớp tình cảm ẩn chứa trong tâm hồn nhà thơ trong hiện tại. Tình yêu nhà thơ dành cho người yêu là một tình yêu có quá trình (đến nay), có thử thách nhưng vẫn chưa tắt (-ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai). Đó là một tình yêu chân thành, đằm thắm nhưng không được đáp đền, không biết nói cùng ai (âm thầm, không hi vọng), một tình yêu rụt rè và có cả ghen tuông nên càng mãnh liệt, cồn cào...hễ có dịp là bật mở.
Cụm từ chừng có thể nghe có vẻ "chưa Việt lắm", nhưng nếu đặt trong sự liền mạch của 4 câu đầu, câu thơ dịch không làm ảnh hưởng đến "tinh thần" cơ bản của nguyên tác; Hình ảnh "ngọn lửa tình" vốn không có trong nguyên tác mà do dịch giả thêm vào. Có lẽ được gợi ý từ động từ tắt như nhiều người đã nghĩ đến .
Tuy nhiên, cái sự thêm vào này cũng không ảnh hưởng đến ý nghĩa câu thơ bởi đây là cách nói ẩn dụ đã quá quen thuộc. Theo logic giãi bày tình cảm: Tôi đã yêu em... nhưng.... Tôi đã yêu em...Cầu trời cho..., dường như nhân vật trữ tình muốn thông báo một sự việc "rút lui", tự chối bỏ niềm say mê, tự mình dập tắt ngọn lửa tình yêu đang nồng cháy... Nhân vật trữ tình giãi bày tâm trạng vừa theo logic của lý trí, vừa theo mạch cảm xúc. Nhưng lý trí là bề ngoài, cảm xúc nhà thơ thì cứ cuồn cuộn chảy, bất chấp cả logic. Ngọn lửa ấy "càng dập, càng nồng". Cảm xúc của nhân vật trữ tình bật lên như một điệp khúc Tôi yêu em!
Qua sự giãi bày của nhân vật trữ tình, ta thấy có sự mâu thuẫn giữa cảm xúc và lý trí. Lý trí bảo:
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa
Hay hồn em phải gợn sóng u hoài...
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.
Ta không biết gì nhiều về tình cảm của cô gái, nhưng nhân vật trữ tình thì hình như không được thanh thản và giữa họ như có điều gì bất ổn, trở ngại. Những trạng thái cảm xúc: rụt rè, âm thầm, không hi vọng, hậm hực lòng ghen...vốn là những biểu hiện rất CON NGƯỜI. Ghen tuông bao giờ cũng là bạn đồng hành của tình yêu. Nét nổi bật ở nhân vật trữ tình là tình cảm chân thành, đằm thắm và rất đỗi cao thượng.
Câu thơ cuối, Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em, thật bất ngờ. Khiêm nhường và tế nhị, tha thiết và mãnh liệt. Mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm trở nên gay gắt. Tưởng như vô lý mà lại có lý. Dường như ngọn lửa tình không những chẳng tàn phai mà còn ngùn ngụt cháy. Câu thơ cuối của Puskin thật độc đáo. Người dịch đã nắm bắt và chuyển tải một sự đồng điệu giữa câu thơ của Puskin với câu ca Quan họ trong bài Giã bạn để dịch nên câu thơ tài hoa này:
Người về em dặn câu rằng
Đâu hơn người kết, đâu bằng đợi em.
Puskin thường không "trang sức cầu kì", không dụng công xây dựng hình ảnh, ít sử dụng các biện pháp tu từ. Sức "ám ảnh" của thơ Puskin nằm ngay trong cái chiều sâu của tư duy và cường độ của cảm xúc...Đến đây, ta mới ngộ ra rằng, bài thơ là một sự vun đắp cho tình yêu chứ không phải là sự chối bỏ tình yêu.